Huyết áp thấp: Nguyên nhân và dấu hiệu nhận biết. (ảnh minh họa). |
Có hai loại: huyết áp thấp tiên phát (do thể trạng) và huyết áp thấp thứ phát (do các bệnh lý khác).
Chia sẻ bí quyết chăm sóc SỨC KHỎE cho mọi nhà! | |
Huyết áp thấp: Nguyên nhân và dấu hiệu nhận biết<span id="1257591994846S" style="display: none" </span<span id="1257591993324S" style="display: none" Có hai loại: huyết áp thấp tiên phát (do thể trạng) và huyết áp thấp thứ phát (do các bệnh lý khác).</span
Có hai loại: huyết áp thấp tiên phát (do thể trạng) và huyết áp thấp thứ phát (do các bệnh lý khác).
Huyết áp thấp tiên phát: Đây là những người có thể trạng đặc biệt, từ nhỏ đến lớn huyết áp vẫn thấp mà không hề có triệu chứng hoặc biến chứng ở bộ phận nào trong cơ thể, khi gắng sức thì thấy chóng mặt. Đây không coi là bệnh lý và không cần điều trị.
Huyết áp thấp thứ phát:Thường gặp ở những người suy nhược kéo dài, mắc các bệnh thiểu năng tuần hoàn não, lao, nhiễm khuẩn, nhiễm độc kéo dài, thiếu máu kéo dài, bệnh nội tiết suy tuyến thượng thận, suy tuyến giáp mạn tính, các bệnh lý tim mạch như bệnh hẹp van hai lá, hẹp van động mạch chủ... hay khi bị suy tim nặng thì huyết áp cũng thường thấp.
Những người huyết áp thấp thường có biểu hiện: mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, giảm tập trung trí lực, suy giảm khả năng tình dục, da nhăn và khô kèm theo rụng tóc, vã mồ hôi nhưng vẫn cảm thấy lạnh, thở dốc nhất là sau khi leo lên cầu thang hay làm việc nặng, khi thay đổi tư thế có thể choáng váng, thoáng ngất hoặc ngất. Nhịp tim nhanh có thể có ngoại tâm thu mạch yếu có khi nhịp chậm, cung lượng tim giảm rõ rệt.
Xác định huyết áp thấp dựa vào đo nhiều lần, nhiều tư thế khác nhau thấy huyết áp tâm thu (huyết áp tối đa) thường xuyên dưới 100mmHg là huyết áp thấp. Đặc biệt khi thay đổi tư thế (nằm sang đứng huyết áp tối đa hạ thấp tới mức nguy hiểm dưới 70mmHg). |